Khi lỗi thuộc về những vì sao
Phan_17
“Tôi xin lỗi vì đã làm cô bé giật mình,” Peter Van Houten nói qua lời rap. Ông ta vẫn mặt bộ suit hôm trước, sau gần một tuần. Người ông ta nồng nặc mùi rượu như thể bây giờ mồ hôi của ông ta cũng là rượu. “Cô bé cứ tự nhiên giữ cái đĩa CD,” ông ta nói. “Của Snook đó, một trong những ban nhạc lớn của Thụy Điển –”
“Á á á á RA KHỎI XE CỦA TÔI MAU.” Tôi tắt luôn dàn âm thanh.
“Đây là xe của mẹ cháu, theo như tôi hiểu là vậy,” ông ta nói. “Đồng thời, cửa xe không khóa.”
“Ôi, Chúa ơi! Có ra khỏi xe không hay đợi tôi gọi chín một một. Này, bộ ông có vấn đề gì hả?”
“Nếu có thì chỉ vì một vấn đề thôi,” ông ta trầm ngâm. “Tôi đến đây đơn giản chỉ để nói lời xin lỗi. Cô bé đã đúng khi chỉ ra rằng trước đây tôi là một kẻ nhỏ mọn thảm hại, sống chỉ biết đến rượu. Tôi chỉ có một người quen duy nhất đã dành thời gian ở bên cạnh tôi bởi vì tôi đã trả lương cho cô ấy làm việc – tệ hại hơn là bây giờ, kể từ khi cô ấy nghỉ việc, tôi chỉ còn là một linh hồn chơ vơ không thể tìm được người đồng hành thậm chí thông qua hối lộ. Tất cả đều đúng, Hazel à. Tất cả những điều đó và thậm chí hơn thế nữa.”
“Được rồi,” tôi nói. Bài phát biểu sẽ cảm động hơn nếu ông ta không nói ngọng nghịu líu nhíu trong hơi rượu.
“Cô bé làm tôi nhớ đến Anna.”
“Tôi làm rất nhiều người nhớ đến rất nhiều người khác,” tôi đáp xẵng. “Tôi thực sự phải đi.”
“Vậy cứ lái đi,” ông ta bảo.
“Ông xuống xe mau.”
“Không. Cô bé làm tôi nhớ đến Anna,” ông ta lúng búng một lần nữa. Sau một giây, tôi cài số de và lùi xe lại. Tôi không thể đuổi ông ta ra khỏi xe và tôi cũng không cần phải làm như vậy. Tôi sẽ lái xe đến nhà anh Gus, và ba mẹ anh sẽ đuổi ông ta xuống.
“Cô bé dĩ nhiên là rất quen thuộc,” Van Houten nói tiếp, “với Antonietta Meo.”
“À, không,” tôi đáp. Tôi bật dàn âm thanh và tiếng nhạc hip-hop Thụy Điển lại xập xình vang lên, nhưng Van Houten hét oang oang át cả tiếng nhạc.
“Có lẽ cô bé ấy là đứa trẻ chết vì bệnh nhỏ tuổi nhất từng được phong chân phước bởi Giáo hội Công giáo. Cô bé ấy mắc cùng căn bệnh ung thư như cậu Waters, bị u xương ác tính. Các bác sĩ đã cắt bỏ chân phải của cô bé. Đau đớn tột cùng. Khi Antonietta Meo nằm hấp hối ở độ tuổi chín chắn khi vừa lên sáu do căn bệnh ung thư đầy đau đớn này, cô bé đã nói với cha mình như sau, ‘Cơn đau giống như vải vậy: càng dai càng có giá trị.’ Có phải như vậy không, Hazel?”
Tôi nhìn Van Houten trực tiếp mà qua hình ảnh phản chiếu của ông ta trong kính chiếu hậu. “Không,” tôi la toáng lên trong tiếng nhạc xập xình. “Thật nhảm nhí!”
“Hóa ra cô bé không cho là vậy!” Ông ta gào lên. Tôi tắt nhạc. “Tôi xin lỗi đã làm hỏng chuyến đi của cô bé. Cô bé còn quá trẻ. Cô bé còn –” Ông ta nức nở. Như thể ông ta có quyền khóc tang anh Gus vậy. Van Houten chỉ là một trong vô số những kẻ khóc tang mà không hề biết anh, một sự than khóc quá muộn màng trên nấm mồ của anh.
“Ông đã không làm hỏng chuyến đi của chúng tôi, ông già tự phụ. Chúng tôi đã có một chuyến đi tuyệt vời.”
“Tôi đang cố gắng,” ông ta nói. “Tôi đang rất cố gắng, tôi thề đó.” Và lúc ấy tôi mới hiểu ra trong gia đình Perter Van Houten đã có một người mất vì bệnh ung thư. Tôi nghĩ đến tính trung thực trong những gì ông ta đã viết về bệnh nhi ung thư; đến chuyện ông ta không thể nói chuyện với tôi ở Amsterdam ngoại trừ đặt ra câu hỏi rằng có phải tôi đã cố tình ăn mặc giống bạn ấy; đến thái độ ti tiện mà ông ta phủ lên đầu tôi và anh Augusutus; đến câu hỏi nhức nhối của ông ta về mói quan hệ giữa cơn đau cực điểm và giá trị của nó. Con người ấy chỉ ngồi đó nốc rượu, một ông già say như hũ chum trong nhiều năm. Tôi chợt nhớ đến một thống kê mà phải chi tôi không được biết: Một nửa các cuộc hôn nhân kết thúc trong vòng một năm sau khi đứa con chung qua đời. Tôi quay lại nhìn Van Houten, đoạn lái xe xuống College, tấp vào phía sau một hàng xe đang đậu và hỏi, “Chú có con qua đời vì bệnh phải không?”
“Con gái tôi,” người đồng hành với tôi thốt lên. “Con bé mới lên tám. Chịu đau rất giỏi. Sẽ không bao giờ được phong chân phước.”
“Cô bé bị bệnh bạch cầu?” tôi dò hỏi. Van Houten gật đầu. “Giống như bạn Anna,” tôi nói.
“Rất giống với Anna, ừ.”
“Chú có gia đình?”
“Không. À, không phải vào thời điểm con bé qua đời. Từ trước khi mất con bé rất lâu thì tôi đã là người không chịu đựng nổi rồi. Sự đau buồn thương tiếc không làm thay đổi ta, Hazel à. Nó chỉ bộc lộ bản chất của ta mà thôi.”
“Chú đã sống với cô bé?”
“Không, hồi đầu thì không. Mặc dù lúc cuối, chúng tôi đã đưa con bé đến New York, nơi tôi đang sống, để trải qua hàng loạt các thử nghiệm tra tấn vốn chỉ tăng thêm sự đau khổ trong chuỗi ngày còn lại của con bé chứ chẳng tăng thêm được số ngày nào hết.”
Sau một giây, tôi nói, “Vậy giống như là chú đã cho cô bé cuộc sống thứ hai trong tiểu thuyết, để cô bé được trải qua tuổi thiếu niên.”
“Tôi nghĩ đó sẽ là một đánh giá công bằng,” ông ta nói, và nhanh chóng nói thêm, “Tôi cho rằng cô bé có biết đến thực nghiệm tư duy mang tên ‘bài toán luân lý với xe lửa mất lái’ của Philippa Foot?”
“Và sau đó cháu xuất hiện trước cửa nhà chú, ăn mặc như người mà chú hy vọng là con gái chú sẽ sống và trở thành như vậy, cho nên chú, giống như chú quá bàng hoàng sửng sốt trước điều đó.”
“Có một chiếc xe lửa bị mất lái trên đường ray,” ông ta nói.
“Cháu không quan tâm đến thực nghiệm tư duy kì cục của chú,” tôi đáp xẵng.
“Thật ra là của Philippa Foot.”
“Chậc, của bà ấy cũng thế,” tôi nói.
“Con bé không hiểu tại sao chuyện lại diễn biến như vậy,” ông ta tiếp tục nói. “Tôi phải nói với con bé rằng nó sắp chết. Nhân viên xã hội của con bé buộc tôi phải nói với nó. Tôi phải báo với con bé là nó sắp chết, nên tôi bảo là nó sẽ được lên thiên đường. Con bé bèn hỏi liệu tôi cũng có mặt ở trên đó không thì tôi bảo rằng không, chưa đến lúc. Nhưng cuối cùng, vì con bé cứ nói mãi nên tôi đã hứa là ừ, tất nhiên rồi, sẽ sớm thôi. Rằng trong khi chờ đợi thì có cả một đại gia đình ở trên đó sẽ chăm sóc nó. Con tôi hỏi lạ là khi nào tôi sẽ lên đó, thì tôi đã trả lời là sẽ sớm thôi. Vậy mà cũng đã hai mươi năm rồi.”
“Cháu rất tiếc.”
“Tôi cũng vậy.”
Sau một lúc, tôi hỏi, “Thế điều gì đã xảy ra với mẹ của cô bé?”
Ông ta mỉm cười. “Cô bé vẫn đang tìm hiểu phần tiếp theo của câu chuyện, cô nhỏ tinh quái này.”
Tôi mỉm cười đáp lại. “Chú nên về nhà,” tôi nói với ông ta. “Cai dứt rượu. Viết một cuốn tiểu thuyết khác. Hãy làm những gì thuộc năng khiếu của chú. Không có nhiều người đủ may mắn để sở hữu năng khiếu trời phú như vậy đâu.”
Ông ta nhìn tôi chằm chằm qua kính chiếu hậu một lúc lâu. “Được rồi,” ông ta nói. “Ừ. Cô bé nói đúng. Cô bé nói đúng.” Nhưng ngay cả khi miệng nói thế, tay ông ta vẫn rút cái chai whiskey đã gần cạn ra. Ông ta uống, đậy nắp lại và mở cửa xe. “Tạm biệt, Hazel.”
“Đừng căng thẳng quá nhé, chú Van Houten.”
Van Houten ngồi bệt xuống lề đường phía sau xe. Khi tôi dõi theo bóng hình ông ta nhỏ dần trong kính chiếu hậu, tôi thấy ông ta lấy chai rượu ra. Và trong một tích tắc ngắn ngủi, tôi đã tin rằng ông ta sẽ để nó lại trên vỉa hè. Thế nhưng người đàn ông ấy đã ngửa cổ nốc ừng ực.
Đó là một buổi chiều nóng nực ở Indianapolis, không khí đặc quánh và im ắng như lúc chúng tôi ở giữa một đám mây. Đây là thời tiết xấu nhất đối với tôi, và tôi tự nhủ tất cả là do khí hậu này khi quãng đường đi bộ từ lối vào đến cửa trước nhà anh Gus có vẻ như kéo dài vô tận. Tôi bấm chuông, và mẹ anh ra mở cửa.
“Ồ, Hazel,” bà thốt lên, ôm choàng lấy tôi và bật khóc.
Bà làm cho tôi món mì lasagna cà tím – có lẽ nhiều người đã mang đồ ăn đến biếu hay sao đó – để ăn với bà và ba anh. “Cháu khỏe không?”
“Cháu rất nhớ anh ấy.”
“Ừ.”
Tôi thực sự không biết phải nói gì. Tôi chỉ muốn đi xuống cầu thang và tìm kiếm bất cứ cái gì anh đã viết cho tôi. Thêm vào đó, bầu không khí im lặng trong phòng khiến tôi không được thoải mái. Tôi muốn họ trò chuyện với nhau, an ủi, nắm tay hay làm bất cứ điều gì. Nhưng họ chỉ ngồi đó ăn qua loa món lasagna, thậm chí chẳng buồn nhìn nhau. “Thiên đường cần một thiên thần,” ba anh lên tiếng sau một hồi im lặng.
“Cháu biết ạ,” tôi nói. Sau đó, các chị của anh cùng đám cháu nhộn nhạo xuất hiện và ùa vào bếp. Tôi đứng dậy, ôm chào hai chị và sau đó theo dõi mấy đứa nhoc chạy lăng quăng quanh nhà bếp với nguồn năng lượng dồi dào vô cùng cần thiết của tiếng ồn và chuyển động, các phân tử bị kích thích này va vào nhau và la hét ỏm tỏi, “Anh bị không em bị không em bị rồi nhưng em đã bắt được anh em có bắt được anh đâu em bắt hụt mà ờ thì giờ em bắt được anh rồi nè thằng ngu thời gian nghỉ mà đâu có tính đâu DANIEL KHÔNG ĐƯỢC GỌI EM CON LÀ THẰNG NGU ủa Mẹ nếu con không được phép sử dụng từ đó thì sao Mẹ hay nói thằng ngu thằng ngu đó,” và sau đó là một tràng thằng ngu thằng ngu thằng ngu thằng ngu, ở bên bàn ăn ba mẹ anh lúc này đã nắm tay nhau, khiến tôi cảm thấy dễ chịu hơn.
“Anh Isaac nói với cháu là anh Gus đã viết gì đó, một cái gì đó cho cháu,” tôi phân trần. Mấy đứa cháu vẫn lải nhải cái điệp khúc thằng ngu ngớ ngẩn của chúng.
“Chúng ta có thể kiểm tra máy tính của thằng bé,” mẹ anh nói.
“Anh không dùng máy nhiều trong mấy tuần cuối,” tôi giải thích.
“Đúng thế. Bác thậm chí không biết mọi người đã mang nó lên đây chưa. Cái máy vẫn còn ở dưới tầng hầm phải không anh Mark?”
“Anh không biết nữa.”
“Dạ,” tôi nói, “vậy cháu có thể…” tôi ngoái đầu về phía cửa tầng hầm.
“Nhà bác vẫn chưa dọn dẹp gì,” ba anh đáp. “Dĩ nhiên là được, Hazel. Dĩ nhiên là cháu có thể xuống đó.
Tôi đi xuống cầu thang, băng qua chiếc giường bề bộn chưa dọn dẹp của anh, qua mấy chiếc ghế chơi điện tử chỏng chơ bên dưới kệ ti-vi. Máy tính của anh vẫn mở. Tôi nhấp chuột để kích hoạt lại máy tính rồi tìm kiếm những tập tin được chỉnh sửa gần nhất. Không có gì trong tháng vừa qua. Tài liệu gần nhất là một bài viết phản hồi về tác phẩm Mắt biếc của tác giả Toni Morrison.
Có lẽ anh viết tay chăng. Tôi đi đến kệ sách trong phòng, tìm một quyển tạp chí hay một cuốn sổ tay. Nhưng không có gì hết. Tôi lật đi lật lại cuốn Nỗi đau tột cùng của anh. Anh đã không để lại một vết tích nào trong đó.
Tiếp theo, tôi bước đến chiếc bàn ở phía đầu giường ngủ. Mayhem bất tử, phần thứ chín sau cuốn Cái giá của Bình minh, nằm trên cùng bên cạnh cái đèn đọc sách, mép trang 138 được gấp xuống. Anh không bao giờ làm như vậy trong lúc đọc. “Cảnh báo ẩn: Mayhem vẫn sống,” tôi nói to như thể anh còn nghe được lời tôi.
Và sau đó tôi bò lên chiếc giường bừa bộn của anh, cuộn mình trong chăn như một cái kén, để mùi của anh bao bọc lấy tôi. Tôi rút ống trợ thở ra để có thể hít sâu hơn mùi của anh, hít hơi anh vào và thở hơi anh ra, mùi hương phai dần ngay cả khi tôi nằm yên ở đó, ngực nóng ran như lửa đốt cho đến khi tôi không thể phân biệt được gì giữa những cơn đau.
Tôi ngồi dậy trên giường sau một lúc và lồng ống trợ thở vào lại, ngồi thở dốc một hồi trước khi đi lên cầu thang. Tôi chỉ lắc đầu để trả lời ánh mắt đầy vẻ mong đợi của ba mẹ anh. Mấy đứa cháu chạy ngang qua chỗ tôi. Một trong hai chị của Gus – tôi không thể phân biệt ai là ai – lên tiếng, “Mẹ ơi, Mẹ có muốn con dẫn chúng ra ngoài công viên chơi không?”
“Không, không, không sao đâu.”
“Liệu còn có nơi nào để anh ấy để lại một cuốn sổ tay không hai bác? Chẳng hạn như cạnh giường của anh ấy ở bệnh viện hay nơi nào đó?” Chiếc giường đã được bệnh viện dọn dẹp mất rồi.
“Hazel,” ba anh ái ngại nói, “cháu đã ở đây mỗi ngày với gia đình bác. Cháu – thằng bé đã không cô đơn một mình, cháu yêu à. Chắc nó không có thời gian để viết gì đâu. Bác biết cháu muôn… Bác cũng muốn thế mà. Nhưng giờ đây có lẽ những thông điệp mà thằng bé muốn nhắn cho chúng ta được gửi từ trên đó, Hazel à.” Ông chỉ tay lên trần nhà, như thể anh Gus đang lơ lửng ngay trên nóc. Biết đâu như thế cũng nên. Tôi không biết nữa, riêng tôi thì không cảm nhận được sự hiện diện của anh ở đâu hết.
“Dạ,” tôi nói. Tôi hứa sẽ đến thăm họ trong vài ngày tới.
Tôi không bao giờ còn gặp lại mùi hương của anh nữa.
Chương 24
Ba ngày sau, vào ngày thứ mười một sau khi anh Gus mất, ba anh gọi cho tôi vào buổi sáng. Lúc đó tôi vẫn còn nối với máy thở BiPAP nên không bắt máy được. Thay vào đó, tôi nằm im lắng nghe ông ghi âm lời nhắn trong hộp thư thoại ngay sau khi tiếng bip vang lên. “Chào Hazel, bác là ba của Gus đây. Bác tìm thấy, ừm, một cuốn sổ tay Moleskine bìa đen để lẫn trên giá để tạp chí gần giường bệnh của Gus, bác nghĩ nó nằm trong tầm với của thằng bé. Đáng tiếc là không có ghi chép gì trong cuốn sổ đó cả. Tất cả các trang đều trống trơn. Nhưng vài trang đầu tiên – bác nghĩ khoảng ba hay bốn trang gì đó – đã bị xé ra. Gia đình bác cũng đã tìm khắp nhà nhưng không sao tìm thấy mấy trang đó, nên bác không biết có thể kết luận được gì ở đây hay không. Có lẽ đó là những trang Isaac đã đề cập đến? Dù sao, bác hy vọng rằng cháu vẫn khỏe. Gia đình bác cầu phúc cho cháu mỗi ngày, Hazel à. Thế nhé, tạm biệt cháu.”
Ba hoặc bốn trang bị xé từ một cuốn sổ tay Moleskine không có ở trong nhà của anh Augustus Waters. Vậy thì anh đã để chúng ở đâu cho tôi? Nhét vào Bộ xương Thời Đại à? Không, anh không đủ sức khỏe để đến đó.
Hay Trái Tim của Chúa Giêsu. Có lẽ anh đã để chúng ở đó cho tôi vào Ngày Tốt Lành Cuối Cùng của anh.
Thế là hôm sau, tôi đến Hội Tương Trợ sớm hơn hai mươi phút so với thường lệ. Trước đó, tôi lái xe đến nhà anh Isaac, đón anh đi cùng và thẳng tiến về nơi Trái Tim của chúa Giêsu. Chúng tôi hạ cửa sổ của chiếc xe tải nhỏ xuống, bật album mới bị rò rỉ của nhóm The Hectic Glow, album mà anh Gus sẽ không bao giờ được thưởng thức.
Chúng tôi đi thang máy. Tôi dẫn anh Isaac đến ngồi trong Vòng tròn Tin tưởng, và một mình tôi đi từ từ sục sạo quanh Trái Tim Chúa. Tôi đã kiểm tra khắp nơi: dưới từng chiếc ghế, quanh bục giảng kinh nơi tôi từng đứng đọc điếu văn của mình, dưới chiếc bàn bày bánh trái, trên bảng thông báo in đầy nét vẽ nguệch ngoạc của các em học sinh về tình yêu của Chúa khi chúng đến vào ngày Chủ Nhật. Chẳng có gì cả. Ngoài nhà anh, đó là nơi duy nhất chúng tôi đã ở với nhau trong những ngày cuối cùng, và mấy trang giấy cũng không có ở đây hay tôi bỏ sót chi tiết nào rồi. Có lẽ anh đã để chúng lại cho tôi trong bệnh viện nhưng như vậy thì gần như chắc chắn là chúng đã bị vứt bỏ sau khi anh qua đời.
Tôi mệt muốn đứt hơi khi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh anh Isaac, và trong khi anh Patrick thao thao bất tuyệt về câu chuyện mất bi của mình, tôi dành toàn bộ thời gian đó nói với hai lá phổi của mình rằng chúng vẫn ổn, rằng chúng có thể thở, rằng có đủ khí ô-xy cho chúng. Hai lá phổi của tôi đã được rút dịch tràn chỉ một tuần trước khi anh Gus mất – tôi đã nằm đó nhìn chất dịch ung thư màu hổ phách được hút lên trong đường ống ra khỏi cơ thể mình - và lúc này có cảm giác như nó đã đầy tràn trở lại. Tôi quá tập trung bảo bản thân mình phải hít thở đến nỗi đã không nhận ra rằng anh Patrick kêu tên tôi đầu tiên.
Tôi nhanh chóng lấy lại tập trung và hỏi, “Dạ?”
“Em khỏe không?”
“Em vẫn khỏe, thưa anh. Em chỉ hơi khó thở.”
“Em có muốn chia sẻ kỷ niệm về Augustus với hội không?”
“Em ước gì em chết quách cho xong, Patrick. Đã có bao giờ anh ước mình chết quách cho rồi chưa?”
“Có chứ,” anh Patrick đáp ngay, không ngập ngừng như bình thường. “Dĩ nhiên là có. Vậy sao em không thử?”
Tôi ngẫm nghĩ về chuyện đó. Câu trả lời cũ rích của tôi là muốn sống vì Ba Mẹ, bởi vì họ sẽ đau buồn cực độ và không còn đứa con nào sau tôi. Lý do đó ngẫm ra vẫn đúng phần nào nhưng không hẳn như vậy. “Em không biết.”
“Vì hy vọng rằng sức khỏe của em sẽ khá hơn phải không?”
“Không,” tôi nói. “Không, không phải vậy đâu. Em thật sự không biết, Isaac, anh nghĩ sao?” Tôi đá sang anh Isaac. Tôi mệt mỏi khi nói chuyện.
Anh Isaac bắt đầu nói về tình yêu đích thực. Tôi không thể nói cho mọi người biết những gì đang diễn ra trong đầu mình vì nghe có vẻ ủy mị quá. Nhưng tôi đang nghĩ về chuyện vũ trụ muốn được chú ý, và làm thế nào tôi có thể tập trung cao độ nhất để chú ý đến nó. Tôi cứ có cảm giác mình rằng đang mắc nợ vũ trụ mà chỉ có sự chú ý của tôi mới có thể trả được món nợ đó. Đồng thời tôi cũng mắc nợ những ai không còn làm người nữa và những ai chưa được làm người. Ba tôi đã nói thế với tôi, cơ bản là như vậy.
Tôi ngồi im trong suốt buồi họp còn lại của Hội Tương Trợ và anh Patrick dành một lời cầu nguyện đặc biệt cho tôi, tên anh Gus được đưa vào trong danh sách dài dằng dặc của những người đã khuất – mười bốn cái tên cho mỗi người trong chúng tôi – và chúng tôi hứa sẽ sống thật tốt cho ngày hôm nay, sau đó tôi dẫn anh Isaac ra xe.
Khi tôi về đến nhà, Ba và Mẹ đang ngồi ở bàn ăn bên chiếc laptop riêng của mỗi người. Ngay khi tôi bước qua ngạch cửa, Mẹ đóng ngay laptop lại. “Có gì trong máy tính vậy Mẹ?”
“Chỉ là một số công thức nấu ăn chống ô-xy hóa thôi. Sẵn sàng nối máy thở BiPAP và xem chương trình Siêu mẫu Mỹ chưa con?” bà hỏi.
“Con cần đi nằm một chút.”
“Con không sao chứ?”
“Dạ, chỉ hơi mệt thôi.”
“Vậy thì con phải ăn đã, trước khi con –”
“Mẹ, con hoàn toàn không thấy đói.” Tôi tiến một bước về phía cửa phòng nhưng bà đã chặn đường tôi.
“Hazel, con phải ăn. Chỉ cần một chút –”
“Không. Con sẽ đi ngủ”
“Không,” Mẹ dứt khoát. “Con không được đi.” Tôi liếc nhìn qua Ba, ông nhún vai.
“Đây là cuộc sống của con,” tôi nói.
“Con không được nhịn đói đến chết chỉ vì Augustus đã chết. Con phải ăn tối.”
Tôi thấy tức thật sự vì một lẽ nào đó. “Con không ăn được mà Mẹ. Con không ăn được. Nha Mẹ?”
Tôi cố gắng đẩy bà sang một bên nhưng bà nắm lấy cả hai bả vai tôi và nói, “Hazel, con sẽ phải ăn tối. Con cần giữ gìn sức khỏe.”
“KHÔNG!” Tôi hét lên. “Con sẽ không ăn tối, và con không thể giữ gìn sức khỏe, bởi vì con không có khỏe. Con đang chết dần chết mòn, Mẹ à. Con sẽ chết và để lại Mẹ một mình trên cõi đời này và Mẹ sẽ không có một đứa con gái Hazel thứ hai nào để lảng vảng xung quanh nữa, Mẹ sẽ không còn là một người mẹ nữa, và con xin lỗi nhưng con cũng không thể làm bất cứ điều gì được hết, nha Mẹ?”
Tôi thấy ân hận ngay khi vừa dứt lời.
“Con đã nghe thấy.”
“Sao ạ?”
“Con đã nghe lỏm Mẹ nói chuyện với Ba phải không?” Nước mắt Mẹ tuôn ra ràn rụa. “Có đúng không?” Tôi gật đầu. “Ôi Chúa ơi, Hazel. Mẹ xin lỗi. Mẹ đã sai, con yêu. Chuyện đó không đúng với sự thật. Mẹ đã buông ra những lời nói đó trong một khoảnh khắc tuyệt vọng. Đó không phải là điều Mẹ hằng tin tưởng.” Mẹ ngồi lên ghế, và tôi ngồi xuống theo bà. Đáng lẽ tôi nên nôn ra một ít mì ống cho bà thấy thay vì tức giận với bà.
“Vậy thì Mẹ tin tưởng những gì?” Tôi hỏi.
“Khi nào một trong hai mẹ con mình còn sống thì Mẹ vẫn là mẹ của con,” bà nói. “Thậm chí con có qua đời, Mẹ -”
“Khi mà,” tôi vừa mở miệng.
Bà gật đầu. “Ngay cả khi con qua đời, Mẹ sẽ vẫn là mẹ của con, Hazel à. Mẹ sẽ không ngừng thiên chức làm mẹ đâu. Thế con có ngừng yêu Gus không?” Tôi lắc đầu. “Đó, vậy sao Mẹ có thể ngừng yêu con được?”
“Được rồi, Mẹ,” tôi nói. Ba tôi đang khóc thút thít.
“Con muốn Ba Mẹ có một cuộc sống thật sự,” tôi nói. “Con lo là sau đó Ba Mẹ sẽ không còn một cuộc sống nào cả, cả ngày hai người chỉ ngồi quanh quẩn trong nhà mà không còn con để chăm sóc, cứ nhìn chăm chăm vào các bức tường và không muốn vận động gì.”
Sau một phút, Mẹ bảo, “Mẹ đang theo học một số lớp. Trực tuyến, liên thông với Đại học Indiana, để lấy bằng thạc sĩ chuyên ngành công tác xã hội. Thật ra Mẹ đã không xem công thức nấu ăn chống ô-xy hóa nào hết, Mẹ đang viết khóa luận.”
“Thật à Mẹ?”
“Mẹ không muốn con nghĩ rằng Mẹ đang chuẩn bị cho một cuộc sống mà không còn con sau này. Nhưng nếu Mẹ lấy được bằng Thạc sĩ Công tác Xã hội này, Mẹ có thể tư vấn cho những gia đình đang gặp khủng hoảng hoặc dẫn dắt những nhóm đang phải đối mặt với người thân bị bệnh trong gia đình của họ hoặc –”
“Khoan đã, vậy Mẹ sẽ giống như anh Patrick sao?”
“À, không hẳn vậy. Có rất nhiều loại hình công tác xã hội.”
Ba lên tiếng, “Ba Mẹ đều lo lắng là con sẽ cảm thấy bị bỏ rơi. Điều quan trọng con phải biết là Ba Mẹ sẽ luôn luôn ở bên con, Hazel. Mẹ con sẽ không đi đâu hết.”
“Không, chuyện này rất hay. Thật tuyệt vời!” Tôi cười thật rạng rỡ. “Mẹ sẽ trở nên giống như anh Patrick. Mẹ sẽ là một Patrick trên cả tuyệt vời! Mẹ sẽ làm việc này tốt hơn anh Patrick gấp nhiều lần.”
“Cảm ơn con, Hazel. Điều đó có ý nghĩa rất nhiều với Mẹ.”
Tôi gật đầu và cũng khóc theo. Tôi không thể diễn tả cảm giác vui mừng như thế nào, ngoài những giọt nước mắt của niềm hạnh phúc thật sự lần đầu tiên trong nhiều năm qua khi tưởng tượng cảnh Mẹ tôi trong vai trò của anh Patrick. Điều đó làm tôi chợt nghĩ đến mẹ của Anna. Cô ấy hẳn cũng là một nhân viên xã hội tốt.
Sau một lúc, chúng tôi bật ti-vi và cùng xem Siêu mẫu Mỹ. Nhưng tôi bấm dừng chỉ sau năm giây bởi vì tôi có rất nhiều câu hỏi cần đặt ra với Mẹ. “Vậy bao lâu nữa thì Mẹ học xong?”
“Nếu Mẹ đến Bloomington một tuần vào hè này thì Mẹ có thể hoàn thành chương trình học vào tháng Mười Hai.”
“Thế Mẹ giấu con chuyện này trong bao lâu rồi, chính xác á?”
“Một năm.”
“Mẹ!”
“Mẹ không muốn làm tổn thương con, Hazel.”
Thật đáng kinh ngạc. “Vậy hóa ra mỗi lần Mẹ ngồi chờ con ở ngoài trường MCC, Hội Tương Trợ hay ở bất cứ đâu là Mẹ -”
“Ừ, đang học bài hoặc đọc sách.”
“Chuyện này rất tuyệt vời. Nếu con có chết đi, con muốn Mẹ biết rằng con ở trên trời sẽ thở phào nhẹ nhõm mỗi khi thấy Mẹ đề nghị ai đó chia sẻ cảm xúc của họ.”
Ba cười nắc nẻ. “Ba sẽ ở đó cùng con, bé cưng,” ông cam đoan với tôi.
Cuối cùng, chúng tôi xem tiếp Siêu mẫu Mỹ. Ba đã cố hết sức để không ngủ gục vì chán. Ông cứ nhầm lẫn cô này với cô kia và liên tục hỏi, “Hai mẹ con thích cô bé này đó hả?”
“Đâu có, đâu có. Hai mẹ con em lèm bèm cô nàng Anastasia này mà. Tụi em thích Antonia, cô bé tóc vàng còn lại kìa,” Mẹ giải thích.
“Tất cả đều cao và kinh dị như nhau,” Ba trả lời. “Tha thứ cho anh vì đã không phân biệt được họ.” Ba chồm người qua tôi để nắm lấy tay Mẹ.
“Ba Mẹ có nghĩ đến chuyện vẫn sẽ sống bên nhau khi con chết đi không?” Tôi hỏi.
“Hazel, sao chứ? Con yêu.” Bà mò tìm chiếc remote và bấm dừng ti-vi lần nữa. “Có chuyện gì vậy?”
“Chỉ là, Ba Mẹ có nghĩ như vậy không?”
“Có chứ, tất nhiên rồi. Tất nhiên là Ba Mẹ vẫn sống với nhau chứ,” Ba khẳng định. “Mẹ và Ba yêu nhau, và nếu Ba Mẹ bị mất con thì Ba Mẹ sẽ cùng nhau vượt qua nỗi đau đó.”
“Ba thề có Chúa đi,” tôi nài nỉ.
“Ba thề có Chúa,” ông nói.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian